Xã hội Đế_quốc_Brasil

Nhân khẩu

Cư dân Brasil thế kỷ 19: hàng 1: người Brasil da trắng; hàng 2: người Brasil pardo/lai (trái sang phải: hai nữ giới mulatto tức lai trắng-đen, hai nữ giới cafuzo tức lai đen-đỏ, một nữ và một nam caboclo tức lai trắng-đỏ); hàng 3: ba người da đỏ Brasil thuộc các bộ lạc khác nhau và ba người đa đen thuộc dân tộc khác nhau

Kể từ nửa sau thế kỷ 18, khi Brasil vẫn là một thuộc địa, chính phủ đã nỗ lực nhằm thu thập dữ liệu về dân cư. Tuy nhiên, ít capitania (sau gọi là tỉnh) thu thập các thông tin được yêu cầu.[209] Sau độc lập, chính phủ lập một ủy ban thống kê theo một sắc lệnh năm 1829 với ủy thác tổ chức một cuộc điều tra nhân khẩu toàn quốc.[209] Ủy ban thất bại và giải thể vào năm 1834. Trong các năm tiếp theo, các chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm thu thập thông tin điều tra nhân khẩu, song báo cáo điều tra của họ thường không đầy đủ hoặc không đệ trình.[209] Năm 1851, nỗ lực khác nhằm tiến hành điều tra nhân khẩu toàn quốc thất bại do bạo động bùng phát. Điều này là kết quả từ một niềm tin sai lầm của người Brasil có nguồn gốc hỗn chủng rằng cuộc khảo sát là bình phong nhằm mục đích nô dịch hóa bất kỳ ai có huyết thống châu Phi.[210]

Cuộc điều tra nhân khẩu toàn quốc thực sự đầu tiên có phạm vi toàn diện và rộng khắp diễn ra vào năm 1872. Số lượng nhỏ cư dân và số lượng nhỏ các thị trấn theo tường trình của cuộc điều tra cho thấy lãnh thổ rộng lớn của Brasil có cư dân thưa thớt. Cuộc điều tra cho thấy tổng dân số của Brasil là 9.930.478.[210] Các ước tính của chính phủ trong các thập niên trước đưa ra là 4.000.000 cư dân vào năm 1823 và 7.000.700 cư dân vào năm 1854.[210] Cư dân phân bổ khắp 20 tỉnh và địa phương trung lập (thủ đô) với 641 khu tự quản.[210]

Trong số cư dân tự do, 23,4% nam giới và 13,4% nữ giới được nhận định là biết chữ.[211] Nam giới chiếm 52% (5.123.869) tổng dân số.[211] Số liệu dân số theo độ tuổi cho thấy 24,6% là trẻ em dưới 10 tuổi; 21,1% là thanh thiếu niên từ 11 đến 20 tuổi; 32,9% là người trưởng thành từ 21 đến 40 tuổi; 8,4% người trong độ tuổi từ 41 đến 50; 12,8% trong độ tuổi từ 51 đến 70; và 3,4% trên 71 tuổi.[211] Tổng số cư dân tại hai khu vực đông bắc và đông nam chiếm 87,2% dân số toàn quốc.[212] Cuộc điều tra nhân khẩu toàn quốc thứ hai diễn ra vào năm 1890 khi nước Cộng hòa Brasil mới thành lập được vài tháng. Kết quả của cuộc điều tra này cho thấy dân số tăng lên 14.333.915.[213]

Dân tộc

Bản đồ biểu thị dân tộc chiếm ưu thế tại Brasil: màu tía—caboclos tức lai da trắng và da đỏ; nâu—da trắng; lục—mulatto tức lai da trắng và da đen; trắng—không có cư dân. Ghi chú: trên 80% dân số cư trú dọc theo đường bờ biển[212]

Bốn dân tộc được công nhận tại Brasil thời đế quốc: người da trắng, người da đen, người da đỏ và người da nâu.[213] Người da nâu (tiếng Bồ Đào Nha: pardo) được chỉ định cho những người Brasil hỗn chủng và đến nay vẫn được sử dụng chính thức,[214][215] mặc dù một số học giả ưu tiên thuật ngữ "người hỗn chủng" (tiếng Bồ Đào Nha: mestiço). Thuật ngữ này bao hàm phạm vi rộng, gồm caboclo (hậu duệ của người da trắng và da đỏ), mulatto (hậu duệ của người da trắng và da đen) và cafuzo (hậu duệ của người da đen và da đỏ).[216]

Caboclo chiếm đa số cư dân tại các khu vực bắc, đông bắc, và trung-tây.[217] Một lượng lớn người mulatto cư trú tại bờ biển phía đông của khu vực đông bắc từ Bahia đến Paraíba[218][219] và cũng hiện diện tại miền bắc Maranhão,[220][221] miền nam Minas Gerais,[222] miền đông Rio de Janeiro và tại Espírito Santo.[218][222] Cafuzo là nhóm nhỏ nhất và khó phân biệt nhất so với hai nhóm hỗn chủng khác do hậu duệ của caboclo và mulatto cũng được xếp vào loại này và được nhận thấy tại sertão (nội địa) đông bắc. Các nhóm này nay vẫn hiện diện tại khu vực tương ứng.[223]

Dân tộc tại Brasil (1872 và 1890)
NămDa trắngDa nâuDa đenDa đỏTổng
187238,1%38,3%19,7%3,9%100%
189044.0%32.4%14.6%9%100%

Người Da trắng Brasil có nguồn gốc từ những người định cư Bồ Đào Nha ban đầu. Kể từ thập niên 1870 trở đi nhóm này cũng bao gồm các di dân gốc Âu khác: chủ yếu là người Ý, Tây Ban Nha và Đức. Mặc dù người da trắng hiện diện khắp quốc gia, song họ chỉ là nhóm chiếm đa số tại khu vực miền nam và tại tỉnh São Paulo.[211] Người da trắng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể (40%) dân số tại các tỉnh đông bắc là Ceará, ParaíbaRio Grande do Norte.[211] Người da đen Brasil có nguồn gốc châu Phi hạ Sahara cư trú trên cùng khu vực với nhóm mulatto. Da số cư dân các tỉnh Rio de Janeiro, Minas Gerais, Espírito Santo, Bahia, Sergipe, AlagoasPernambuco (bốn tỉnh cuối có tỷ lệ người da trắng thấp nhất toàn quốc-dưới 30%) là người da đen và da nâu.[211] Người da đỏ là cư dân bản địa tại Brasil, họ chủ yếu hiện diện tại các tỉnh Piauí, Maranhão, ParáAmazonas.[211]

Do sự hiện diện của các cộng đồng dân tộc và văn hóa riêng biệt, Brasil thế kỷ 19 phát triển trong tình trạng một quốc gia đa dân tộc. Tuy nhiên, dữ liệu không chắc chắn do không có thông tin khả tín cho các năm trước 1872. Cuộc điều tra nhân khẩu toàn quốc chính thức đầu tiên do chính phủ tiến hành vào năm 1872 cho thấy rằng trong 9.930.479 cư dân có 38,1% là người da trắng, 38,3% là người da nâu, 19,7% là người da đen và 3,9% là người da đỏ.[213] Cuộc điều tra nhân khẩu toàn quốc chính thức lần thứ hai vào năm 1890 cho thấy rằng dân số đạt 14.333.915, 44% là người da trắng, 32,4% là người da nâu, 14,6% là người da đen và 9% là người da đỏ.[213]

Di dân gốc Âu

Những người Đức và Luxembourg nhập cư tại thuộc địa Santa Leopoldina thuộc tỉnh Espírito Santo, khoảng năm 1875

Trước năm 1808, người Bồ Đào Nha là dân tộc châu Âu duy nhất định cư tại Brasil với số lượng đáng kể. Mặc dù trước đó người Anh, Đức, Ý và Tây Ban Nha đã nhập cư đến Brasil, song chỉ với một số lượng cá nhân nhỏ hoặc trong các nhóm rất nhỏ. Những cư dân phi Bồ Đào Nha thời kỳ đầu này không có tác động đáng kể đến văn hóa của thuộc địa Brasil.[224] Tình thế biến đổi sau năm 1808 khi Quốc vương João VI của Bồ Đào Nha bắt đầu khuyến khích di cư từ các quốc gia châu Âu khác ngoài Bồ Đào Nha.[224][225]

Dân tộc đầu tiên di cư với số lượng đáng kể là người Thụy Sĩ, trong số đó có khoảng 2.000 người định cư tại tỉnh Rio de Janeiro vào năm 1818.[226] Tiếp theo đó là người Đức và người Ireland, họ di cư đến Brasil trong thập niên 1820. Những di dân người Đức hầu hết bị thu hút về các tỉnh miền nam, tại đó môi trường tương đồng nhiều hơn với quê hương họ.[227] Trong thập niên 1830, người châu Âu tạm dừng nhập cư do bất ổn trong thời kỳ nhiếp chính, quá trình chỉ khôi phục sau khi Pedro II nắm thực quyền và quốc gia bước vào thời kỳ hòa bình và phồn vinh.[228] Các nông dân tại miền đông nam làm giàu nhờ hoạt động xuất khẩu cà phê, họ lập ra "hệ thống hợp tác" (một hình thức lao dịch khế ước) nhằm thu hút dân nhập cư. Hệ thống kéo dài cho đến thập niên 1850, khi nó sụp đổ và bị từ bỏ. Thất bại bắt nguồn từ khoản nợ lớn mà những người châu Âu định cư mắc phải để trang trải cho việc đi lại và phí tổn định cư, khiến họ thực tế biến thành các nô lệ của chủ nhân.[229] Hoạt động nhập cư trải qua một đợt suy giảm khác trong Chiến tranh Paraguay kéo dài từ năm 1864 đến năm 1870.[230]

Số người nhập cư tăng mạnh trong thập niên 1870, được gọi là "đại nhập cư". Đến trước thời điểm đó, mỗi năm có khoảng 10.000 người châu Âu đến Brasil, song từ sau năm 1872 số lượng này gia tăng đột ngột.[231] Theo ước tính của Viện Địa lý và Thống kê Brasil thì có 500 nghìn người châu Âu nhập cư đến Brasil từ năm 1808 đến năm 1883.[232] Số liệu những người châu Âu định cư đến từ năm 1884 đến năm 1893 tăng lên 883.668.[232] Số lượng người châu Âu nhập cư tiếp tục tăng trong các thập niên tiếp theo, với 862.100 từ năm 1894 đến năm 1903; và 1.006.617 từ năm 1904 đến năm 1913.[232]

Từ năm 1872 đến năm 1879, quốc tịch của nhóm tân di dân bao gồm người Bồ Đào Nha (31,2%), người Ý (25,8%), người Đức (8,1%) và người Tây Ban Nha (1,9%).[231] Trong thập niên 1880, người Ý vượt qua người Bồ Đào Nha (61,8% so với 23,3%), và người Tây Ban Nha cũng vượt qua người Đức (6,7% so với 4,2%).[231] Các nhóm nhỏ khác cũng đến, gồm người Nga, người Ba Lan, người Hungary.[233] Do gần như toàn bộ người châu Âu nhập cư định cư tại miền đông nam và miền nam của đế quốc, phân bổ dân tộc vốn đã không đồng đều từ trước khi nhập cư hàng loạt thì nay càng trở nên khác biệt giữa các khu vực.[234] Đối với một quốc gia có dân số nhỏ và phân tán rộng (4.000.000 vào năm 1823 và 14.333.915 vào năm 1890), việc 1.380.000 người châu Âu nhập cư có một tác động to lớn đến thành phần dân tộc quốc gia. Năm 1872, trong cuộc điều tra nhân khẩu toàn quốc khả tín đầu tiên, người da trắng Brasil chiếm 38,1% tổng dân số; và đến năm 1890, tỷ lệ của họ tăng lên 44,0%.[213]

Chế độ nô lệ

Một gia đình người Brasil và các nữ gia nô của họ, khoảng năm 1860Các nô lệ (bao gồm con tự do của họ) tụ tập trong một trang trại cà phê tại Brasil, khoảng năm 1885

Năm 1823, tức một năm sau khi độc lập, nô lệ chiếm 29% dân số Brasil, con số này giảm đi trong thời gian đế quốc tồn tại: từ 24% vào năm 1854, xuống 15,2% vào năm 1872, và cuối cùng xuống dưới 5% vào năm 1887—năm trước khi chế độ nô lệ hoàn toàn bị bãi bỏ.[235] Các nô lệ hầu hết là nam giới trưởng thành đến từ khu vực tây nam của châu Phi.[236] Các nô lệ được đưa đến Brasil khác biệt về dân tộc, tôn giáo và ngôn ngữ, họ chủ yếu nhận diện nhau trên cơ sở dân tộc thay vì chia sẻ một tính sắc tộc châu Phi.[237] Một số nô lệ được đưa đến châu Mỹ khi xưa bị bắt giữ trong chiến tranh giữa các bộ lạc và sau đó bị bán cho người buôn nô lệ.[238][239]

Các nô lệ và hậu duệ của họ thường hiện diện tại các khu vực dành riêng cho sản xuất xuất khẩu phục vụ thị trường ngoại quốc.[240] Các đồn điền mía tại bờ biển phía đông của miền đông bắc trong thế kỷ 16 và 17 mang đặc trưng của hoạt động kinh tế dựa trên lao động nô lệ.[241] Tại miền bắc tỉnh Maranhão, lao động nô lệ được sử dụng trong sản xuất bông sợi và lúa gạo vào thế kỷ 18.[242] Trong giai đoạn này, các nô lệ cũng bị khai thác tại tỉnh Minas Gerais, là nơi có hoạt động khai thác vàng.[243] Chế độ nô lệ cũng phổ biến tại Rio de JaneiroSão Paulo trong thế kỷ 19 để trồng cà phê, loại cây trở nên sống còn đối với kinh tế quốc gia.[244] Sự phổ biến của chế độ nô lệ không đồng nhất về địa lý trên toàn Brasil. Khoảng năm 1870 chỉ năm tỉnh (Rio de Janeiro với 30%, Bahia với 15%, Minas Gerais với 14%, São Paulo với 7% và Rio Grande do Sul cũng với 7%) đã chiếm 73% tổng số nô lệ trên toàn quốc.[245] Tiếp theo là các tỉnh Pernambuco (6%) và Alagoas (4%). Trong 13 tỉnh còn lại, không tỉnh nào có số nô lệ vượt quá 3% dân số.[246]

Hầu hết nô lệ làm việc trong thân phận lao công đồn điền.[245] Tương đối ít người Brasil sở hữu nô lệ và hầu hết các trang trại quy mô nhỏ và vừa sử dụng các lao động tự do.[247] Các nô lệ có thể hiện diện rải rác khắp xã hội trong các lĩnh vực khác: một số được sử dụng làm gia nô, nông dân, thợ mỏ, gái mại dâm, người làm vườn và nhiều vai trò khác.[248] Nhiều nô lệ được giải phóng tiếp tục thu mua nô lệ và có trường hợp nô lệ có nô lệ riêng.[249][250] Trong khi nô lệ thường là người da đen hoặc người lai đen trắng, có các trường hợp được tường thuật là có vẻ như người gốc Âu do lai tạp nhiều thế hệ giữa nam chủ nô và nữ nô lệ mulatto của họ.[251] Ngay cả các chủ nô hà khắc nhất cũng giữ vững thực tiễn truyền thống là bán nô lệ cùng gia đình họ, chiếu cố để không chia rẽ các cá nhân.[252] Các nô lệ được xác định là tài sản theo luật. Những người được tự do sẽ lập tức trở thành công dân với toàn bộ các quyền dân sự được đảm bảo—ngoại lệ là trước 1881, các nô lệ được tự do bị ngăn cản bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử, song con cháu họ thì có thể.[245]

Quý tộc

Quốc lễ tại Cựu đại giáo đường Rio de Janeiro, những người tham dự được yêu cầu mặc quan phục

Tầng lớp quý tộc Brasil khác biệt rõ rệt so với quý tộc châu Âu: các tước hiệu quý tộc không được thế tập, ngoại lệ duy nhất là các thành viên hoàng gia,[253] và những người nhận một tước hiệu quý tộc không được nhìn nhận là thuộc một đẳng cấp xã hội riêng, và không nhận được thái ấp hay bổng lộc.[253] Tuy nhiên, nhiều đẳng cấp, truyền thống, và quy định trong hệ thống quý tộc của Brasil được tiếp nhận trực tiếp từ chế độ quý tộc Bồ Đào Nha.[254][255] Trong thời kỳ Pedro I cai trị, không có điều kiện tiên quyết rõ ràng để một người được phong làm quý tộc. Đến thời Pedro II cai trị (ngoài thời kỳ nhiếp chính do người nhiếp chính không thể ban tước hiệu hoặc tôn vinh[256]) chế độ quý tộc tiến hóa thành một chế độ nhân tài[254] với các tước hiệu được ban nhằm công nhận sự phục vụ xuất sắc của một cá nhân cho Đế quốc hoặc cho lợi ích công cộng. Cấp bậc quý tộc không đại diện cho "công nhận tổ tiên vinh hiển."[257][258]

Hoàng đế với quyền của người đứng đầu nhánh hành pháp sẽ ban tước hiệu và vinh dự.[254] Tước hiệu của quý tộc theo thứ tự tăng dần: nam tước, tử tước, bá tước, hầu tước và công tước.[254] Ngoài các tước theo hệ thống phân cấp, còn có phân biệt khác giữa các đẳng cấp: bá tước, hầu tước và công tước được xem là "grandee" trong khi các tước hiệu nam tước và tử tước có thể được ban "với sự cao quý" hoặc "không có sự cao quý".[254] Tất cả đẳng cấp của quý tộc Brasil đều được gọi là "Thưa Ngài".[254]

Từ năm 1822 đến năm 1889, 986 người được phong làm quý tộc.[259] Chỉ ba người được phong là công tước: Đệ nhị công tước xứ Leuchtenberg là Auguste de Beauharnais (ban tước là Công tước xứ Santa Cruz, là anh rể của Pedro I), Isabel Maria de Alcântara Brasileira (ban tước là Nữ công tước xứ Goiás, con gái ngoài giá thú của Pedro I) và cuối cùng là Luís Alves de Lima e Silva (ban tước là Cong tước xứ Caxias, tổng Tư lệnh trong Chiến tranh Paraguay).[260] Các tước hiệu khác được ban như sau: 47 tước hầu, 51 tước bá, 146 tước tử "với sự cao quý", 89 tước tử "không có sự cao quý", 135 tước nam "với sự cao quý" và 740 tước nam "không có sự cao quý" với tổng cộng 1.211 tước hiệu quý tộc.[261] Có ít quý tộc hơn tước hiệu quý tộc do nhiều người được ban tước nhiều hơn một lần trong đời, như Công tước xứ Caxias ban đầu được phong làm nam tước, rồi bá tước, rồi hầu tước và cuối cùng thăng làm một công tước.[256] Việc ban tước không hạn chế đối với nam giới Brasil: Đệ thập Bá tước xứ Dundonald là Thomas Cochrane là người Scot, song được phong làm Hầu tước xứ Maranhão vì vai trò của ông trong Chiến tranh Độc lập Brasil,[262] và 29 nữ giới được phong làm quý tộc cho bản thân họ.[263] Cũng như không hạn chế về giới tính, không phân biệt chủng tộc cũng được thực thi trong việc ban địa vị quý tộc. Người thuộc nhóm caboclo,[264] mulatto,[265] da đen[266] và thậm chí là da đỏ[266] cũng được phong làm quý tộc.

Giới quý tộc nhỏ không có tước hiệu hình thành từ các thành viên được ban huân chương đế quốc: Huân chương Chúa cứu thế, Huân chương São Bento de Avis, Huân chương Sant'Iago da Espada, Huân chương Nam Thập Tự, Huân chương Pedro I và Huân chương Hoa hồng.[255] Ba huân chương đầu có mức độ vinh dự sau Đại chủ nhân (chỉ dành cho Hoàng đế): hiệp sĩ, chỉ huy và đại thập tự. Tuy nhiên, ba huân chương sau có cấp bậc khác nhau: Huân chương Nam Thập Tự với bốn cấp, Huân chương Hoa hồng có sáu cấp, và Huân chương Pedro I có ba cấp.[255]

Tôn giáo

Một bộ ba thày dòng người Brasil, khoảng năm 1875

Điều 5 trong Hiến pháp tuyên bố Công giáo La Mã là quốc giáo.[267] Tuy nhiên, giới tăng lữ từ lâu đã thiếu nhân lực, vô kỷ luật và được giáo dục kém,[268][269] tất cả dẫn đến suy giảm tổng thể lòng kính trọng đối với Giáo hội Công giáo.[268] Thời Pedro II trị vì, chính phủ tiến hành một chương trình cải cách có mục đích giải quyết những thiếu sót này.[268] Do Công giáo La Mã là quốc giáo, Hoàng đế thi hành kiểm soát một số lượng lớn các sự vụ của giáo hội[268] và trả lương cho tăng lữ, bổ nhiệm linh mục xứ đạo, đề cử giám mục, phê chuẩn chiếu thư giáo hoàng và giám sát trường dòng.[268][270] Trong khi tiếp tục cải cách, chính phủ lựa chọn các giám mục có đạo đức thích hợp, lập trường về giáo dục và ủng hộ đối với cải cách đáp ứng để họ phê chuẩn.[268][269] Tuy nhiên, do những người có năng lực hơn bắt đầu lấp đầy các cấp bậc tăng lữ, nỗi phẫn uất đối với quyền kiểm soát của chính phủ đồi với giáo hội gia tăng.[268][269] Các giáo sĩ Công giáo chuyển sang thân cận hơn với Giáo hoàng và các học thuyết của ông ta. Điều này dẫn đến một loạt xung đột trong thập niên 1870 giữa giới tăng lữ và chính phủ, do giới tăng lữ muốn có quan hệ trực tiếp hơn với Roma còn chính phủ thì muốn duy trì giám sát các sự vụ của giáo hội.[271]

Hiến pháp cho phép tín đồ của các tín ngưỡng khác ngoài Công giáo La Mã được thực hành đức tin tôn giáo của họ, song chỉ là riêng tư. Việc xây dựng các công trình tôn giáo ngoài Công giáo bị cấm chỉ.[272] Ngay từ đầu, các hạn chế này bị toàn thể công dân và nhà cầm quyền phớt lờ. Tại thủ phủ Belém của tỉnh Pará, giáo đường Do Thái giáo đầu tiên được xây dựng vào năm 1824.[272] Người Do Thái di cư đến Brasil ngay sau khi quốc gia này độc lập và định cư chủ yếu tại các tỉnh đông bắc là Bahia và Pernambuco cùng các tỉnh miền bắc là Amazonas và Pará.[272] Các nhóm Do Thái khác đến từ khu vực Alsace-Lorraine của Đức và từ Nga.[273] Đến thập niên 1880, tồn tại một số cộng đồng và giáo đường Do Thái giáo rải rác khắp Brasil.[274]

Các tín đồ Tin Lành là nhóm tôn giáo khác bắt đầu định cư tại Brasil vào đầu thế kỷ 19. Các tín đồ Tin Lành đầu tiên là người Anh, và một nhà thờ Anh giáo được khánh thánh tại Rio de Janeiro vào năm 1820. Các nhà thờ khác được thành lập sau đó tại các tỉnh São Paulo, Pernambuco và Bahia.[275] Tiếp theo sau người Anh là các tín đồ phái Luther người Đức và Thụy Sĩ, họ định cư tại các khu vực miền nam và tây nam và xây dựng các nhà nguyện riêng của mình.[275] Sau Nội chiến Hoa Kỳ trong thập niên 1860, các di dân từ miền Nam Hoa Kỳ tìm cách đào thoát "Tái thiết" đã định cư tại São Paulo. Một số giáo hội của người Mỹ bảo trợ các hoạt động truyền giáo, gồm Báp-tít, Luther, Công lý và Giám Lý.[276]

Trong số nô lệ châu Phi, Công giáo La Mã là tôn giáo của đa số. Hầu hết nô lệ có nguồn gốc từ khu vực trung tây và tây nam của bờ biển châu Phi. Trong hơn bốn trăm năm khu vực này có các hoạt động truyền giáo Cơ Đốc.[277] Tuy nhiên, một số người châu Phi và hậu duệ của họ duy trì các yếu tố truyền thống tôn giáo đa thần bằng cách hợp nhất chúng với Công giáo La Mã. Điều này dẫn đến hình thành các tín ngưỡng hổ lốn như Candomblé.[278] Hồi giáo được một thiểu số nhỏ nô lệ châu Phi hành lễ, song chịu đàn áp khắc nghiệt và đến cuối thế kỷ 19 thì hoàn toàn bị tiêu biến.[279] Đến đầu thế kỷ 19, người da đỏ tại hầu hết miền đông Brasil đã bị đồng hóa hoặc tàn sát. Một số bộ lạc kháng cự đồng hóa và hoặc là đào thoát xa hơn về phía tây để có thể duy trì các đức tin đa thần đa dạng của họ, hoặc bị hạn chế trong aldeamentos (khu hạn chế), tại đó họ cuối cùng cũng cải sang Công giáo La Mã.[280]